Màu Cờ: Biểu Tượng và Niềm Tin

Màu Cờ: Biểu Tượng và Niềm Tin – Phần 1

Bảo Giang –

Với quốc gia: Lá Cờ là nghi biểu linh thiêng, sống động của Tổ Quốc.

Với dân tộc:  Lá Cờ là sự kết hợp một truyền thống lâu dài, là văn hóa, là biểu hiệu một ý chí kiên cường bảo vệ cuộc sống Công Lý cho chủng tộc trong Tự Do, Công Bình, Nhân Bản. Diễn đạt một ý chí Độc Lập của đất nước.

Ông Vĩnh, một cưụ chiến binh trong QLVNCH. Từ ngày ra khỏi nước, trong nhà ông, ngoài bàn thờ, bài vị của tổ tiên ra, bao giờ cũng thấy có những biểu tượng mà ông đã “ một đời” hy sinh vì nó như lá Cờ Vàng, tấm huy chương, hay tấm hình ngày ông qùy xuống nhận trách nhiệm với non sông. Tất cả  được đặt ở những vị trí trang trọng nhất. Rủi thay, đứa con ông dứt ruột đẻ ra. Khi CS vào, chính ông cõng nó, ông bồng nó trốn chạy cộng sản ra hải ngoại. Niềm vui chưa kịp đến khi nó khôn lớn, là một bác sỹ, kỹ sư, luật sư…. lại đến câu chuyện ông mất con.

Chuyện kể, sau vài chuyến về Việt Nam với cô bạn gái là du học sinh. Chẳng biết nghe ai xúi, Minh ( lại cũng tên Minh!) một bác sỹ mới ra trường, hùng dũng mang về tấm hình Hồ chí Minh và cái lá cờ của cộng sản Phúc Kiến. Nó treo lên bức tường chính của phòng khách. Ông Vĩnh đi làm về nhìn thấy. Máu uất bốc lên. Ông giật ngay cái lá Cờ Đỏ và tấm hình có nắm lông mồm của HCM quẳng ra ngoài sân.  Minh bất bình, lớn tiếng kết tội ông bố độc tài, ích kỷ, thiếu ý thức chính trị, không tôn trọng tự do của người khác. Cuộc khẩu chíến bùng lên.  Ông Vinh xăn tay áo lên: “Nói thế là mày phản bội lại những hy sinh của gia đình này, mày không xứng đáng ở lại đây. Hãy thu đồ ra khỏi nhà ngay. Mày tưởng là bác sỹ, là luật sư là lên bằng giời, là có ý thức chính trị hay sao? Đi, đi ngay! Công lao tao đưa mày đi vượt biển, nuôi mày ăn học, kể như bỏ. Đi, đi ngay! Tao thà là không có mày, còn hơn bị nguyền rủa”! Mặc cho bà vợ réo gào. Lệnh vẫn xé màng tang. Minh cũng “hách” không kém, cuốn cờ, nhặt lấy tấm hình, xách va li, lái xe ra khỏi nhà. “ Xem mi đi được bao lâuTốt nhất là về bên đó mà sống luôn với nó (cờ đỏ), đừng ở đây, ăn cơm gạo ở xứ này làm tủi nhục cho bố mẹ mày, tủi nhục lây cho những người đi tỵ nạn!Đi, Đi cho khuất mắt.”!

Trong Đèn Cù của Trần Đĩnh cũng có câu chuyện tương tự:“Tình cờ gặp Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng rốn lụt của Hải Dương. Anh thuộc lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng. Nhưng anh đã nếm một chiến bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi, giọng anh vẫn run run như nghẹn lại. Lẽ tất nhiên anh rất vui khi lần đầu tiên trở lại đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy: – Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh,anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên.” (tr 486)

Hai câu chuyện về Màu Cờ, một xảy ra ở bên Mỹ, một bên ta cách nhau có đến gần ba mươi năm, chẳng hẹn mà cùng gặp một kết quả. Trước mắt, nó làm cho hai gia đình trong cuộc tan nát, ly tan. Thoáng nhìn, có người cho rằng “ xử sự” như thế là khắt khe, là không công bằng, là áp bức không có tự do? Tôi cho luận điệu, phản bác này là ấu trĩ, như đứa trẻ lên ba chưa biết mặc quần đã biết làm “ cách mạng VC”. Bởi lẽ, nếu lá Cờ Vàng và tấm hình của TT  Diệm xuất hiện ở trong một gia đình nào đó trong vùng đất cộng sản chiếm đóng thì gia đình ấy sẽ ra sao? Liệu có phải chỉ là cuộc “khẩu chiến” suông trong nhà, hay sẽ là cảnh chủ nhân bị cán cộng đến bịt mắt đưa đi vào lúc nửa đêm? Lúc ấy có là tự do, có là thiếu hiểu biết chính trị hay không?

Như thế, ông Vĩnh và bà mẹ Việt Nam trong Đèn Cù có đủ lý do khi có quyết định này. Họ là người tôn trọng lẽ phải. Có trách là trách con ông như kẻ sa đà, lỡ nghiện thuốc phiện. Nó không chỉ phản bội lại chính lòng hy sinh, mổ hôi, nước mắt và có thể cả máu của ông mà thôi, nhưng còn là sự phản bội với đồng bào, những người chiến binh đã hy sinh xương máu để bảo vệ Màu Cờ Tự Do, Độc lập của dân tộc nữa. Sự phản bội này xem ra rất khó “ hóa giải”. Theo đó, giải pháp tình thế này được coi là khả dĩ hơn là chuyện “ yên lặng”, để cho tình cha con mỗi ngày chồng chất thêm đau thương, lẫn hận thù trong cuộc sống gỉa dối. Hơn thế, là cơ hội để cho con ông tự biết trái, biết phải,  biết suy nghĩ và biết sống cho nên người chân thật. Chuyện bà mẹ của Minh Tường cũng thế. Bà đã không còn chọn lựa nào khác. Thà mất con (như đã từng mất khi nó thoát ly ra đi) hơn là chấp nhận cho nó mang tội ác và gian trá về nhà! Cuộc chiến trong nhà, nơi chỉ có tình cảm còn gay gắt thế, nói chi đến cuộc chiến ngoài xã hội, nơi tựa vào lý lẽ nhiều hơn. Nhưng từ đâu, cuộc bể dâu đã đổ xuống thân phận Việt Nam?

I.Đôi dòng Lịch Sử

1.Cờ Vàng

Từ rất xa, khoảng năm 40 sau Công nguyên, nước ta còn bị Tàu phương bắc đô hộ. Hai bà Trưng, đã dùng Cờ Vàng để khởi nghĩa, đánh đuổi quân xâm lăng. Bà lấy lại 65 thành trì để xưng vương. Từ đó sắc cờ Vàng luôn ẩn hiện trong các triều đại kế tiếp. Đến triều Nguyễn, hai sọc đỏ được thêm vào lá Cờ Vàng, và kích thước cũng khác đi, Đến năm 1945, một sọc đỏ (đứt quãng) được thêm vào giữa hai sọc đỏ có từ trước.  Rồi vào năm 1948, cựu hoàng Bảo Đại đã cho nối liền sọc đỏ ở giữa lại. Từ đó trên toàn cõi Việt Nam, từ bắc chí nam, chỉ có một màu Cờ Vàng tung bay theo nước rộng sông dài, là nghi biểu thiêng liêng của đất nước. Màu Cờ Vàng là sự kết hợp một truyền thống, một lịch sử, một văn hóa, biểu hiệu một ý chí kiên cường bảo vệ cuộc sống cho chủng tộc trong Tự Do, Công Bình, Nhân Bản và diễn đạt một ý chí Độc Lập của dân tộc. Đó là màu cờ của sự sống.

2.Cờ Đỏ

Vào khoảng năm 1940, Hồ Quang, ( trích theo tài liệu trong quân ủy trung ương Trung cộng và tài liệu chính quy của CSVN) là thiếu tá tại chức, tùng sự trong bát lộ quân, ngành điện báo của Trung cộng dưới quyền chỉ huy của tướng Chu Đức, đã được lệnh xâm nhập vào Việt Nam và sau đổi là Hồ chí Minh. Khi vào Việt Nam Y mang theo lá Cờ Đỏ có một sao vàng là cờ khởi nghĩa của đảng cộng sản Phúc Kiến do Li ji Shen lãnh đạo. Sau khi vào Việt Nam, theo Võ Nguyên Giáp, lá Cờ Đỏ ban đầu dùng làm cờ lệnh của đảng. Sau biến cố cướp chính quyền của Việt Minh vào năm 1945, nó trở thành Lá Cờ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ chí Minh lãnh đạo để từ đây thi hành những chỉ thị từ Trung cộng. Sau ngày 30-4- 1975, nó là biểu tượng của nhà nưóc CHXHCNVN trở thành bàn đạp cho bá quyền Trung cộng tràn xuống phương nam. Nó là Màu Cờ chuyên chở số phận con người trở về, lệ thuộc và sống trong nô lệ. Chính nó, từ Liên Sô, Trung cộng đã giết chết cuộc sống của nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam. Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy vọng, mọi yêu thương, mọi nhân ái trong lòng người Việt Nam. Nó giết chết cuộc sống yên bình của con người. Nó đẩy dân tộc ta vào cảnh khổ đày điêu linh.

 

Với một nguồn gốc, lịch sử và văn hóa khác biệt và xung khắc như thế, chắn chắn không bao giờ có thể có sự dung hòa giữa hai Màu Cờ này. Trái lại, sẽ là cuộc đối đầu và loại trừ nhau một cách vĩnh viễn.  Sự loại trừ này giống như sự thiện, công lý không thể chấp nhận tội ác và gian trá. Sự Thiện, Ác, Công Lý và gian trá là cuộc chiến không bao giờ chấm hết, Nhưng cuộc chiến giữa hai Màu Cờ sẽ chỉ là một giai đoạn và nó sẽ kết thúc vói một mất một còn. Cờ Đỏ được coi là thắng thế trong bốn mươi năm qua, nhưng CỜ VÀNG không bao giờ  biến mất. Khi Cờ Vàng quay về. vĩnh viễn Cờ Đỏ sẽ bị chôn vùi, không còn một ai nhắc nhở đến nó, ngoài tội ác và gian trá do nó gây ra. Và dĩ nhiên, trong cuộc tranh chấp này, không thể có sự xuất hiện của một biểu tượng thứ ba. Như thế, Màu cờ nào sẽ còn, cái nào sẽ bị tiêu diệt?

  1. Màu cờ nào là biểu tượng, sống mãi trong lòng ngưòi?

Cờ Vàng, những tưởng là đã tan biến đi từ biến cố 30-4-1975, không còn ai nhắc nhở đến nữa. Kết quả, lại vượt qua sức tưởng tượng của tât cả mọi người. Cờ Vàng không những chỉ tung bay trên bầu trời thế giới, là biểu tượng sống của Việt Nam Tự Do. Hơn thế, còn là niềm tin yêu, là hy vọng, là sức sống tuyệt đối cho mọi ánh mắt của mọi người ở trong nước cũng như trên thế giới cùng hướng về. Tại sao Cờ Vàng, sau bốn mươi năm không còn hiện diện trên bầu trời Việt Nam, lại trở thành một niềm tin tuyệt đối để mọi người cùng dõi mặt về? Người dân dõi mắt về đặt niềm tin hay chỉ là hoài niệm? Tôi cho rằng, sẽ không có câu trả lời nào chính xác hơn là: Chính Cờ Đỏ đã dạy cho người dân Việt Nam biết đặt niềm tin và trông chờ vào sự trường tồn của Cờ Vàng. Chính Cờ Đỏ đã chỉ ra rằng, Chỉ có Cờ Vàng mới khả dĩ đáp ứng được yêu cầu khát vọng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý và sự Độc Lập của Tổ Quốc cho người dân Việt Nam. Nói cách khác, chính Cờ Đỏ đã lộ nguyên bản chất là một thứ giẻ rách đầy bội phản do CS đi vay mượn để gây ra tội ác cho dân tộc. Nó phải bị loại bỏ khỏi cuộc sống của ngưòi dân Việt Nam, dù hôm nay nó vẫn phe phẩy ở đó. Bởi lẽ:

1.Với người sống tại miền nam:

Có thể nói một cách công bằng là: Cuộc sống của người miền nam, trước 30-4-1975, không phải là cuộc sống ở trên thiên đàng. Trái lại, ở đó là chiến tranh tranh, ở đó có tang thương vì cuộc chiến. Ở đó có những xáo trộn về chính trị qua những cuộc đảo chánh rồi chỉnh lý. Ở đó không ai được hứa hẹn là hết chiến tranh sẽ dược xây dựng lại bằng mười năm xưa. Nhưng trong cuộc sống với đầy những khó khăn ấy, người người đã tích cực vun trồng hai chữ Việt Nam và đưa miền nam vào cuộc sống rất đáng sống và rất đáng hãnh diện trên trrường quốc tế. Bởi lẽ, về kinh tế, miền nam trong chiến tranh, nhưng không nghèo khó. Ngưòi ở miền nam chưa bao giờ phải trắng mắt lo toan ngày mai ăn gì, mặc gì. Lúa gạo, thịt cá ê hề, người dân muốn mua sắm thế nào tùy thích. Chưa có người dân nào phải đi mua hay chầu chực mua lấy nửa ký gạo, nửa ký cá, chai nước mắm bao giờ. Ngoài đường thì tràn ngập các loại xe máy, xe hơi. Về công nghệ thì đã sản xuất được xe La Dalat. Thành phố Sài Gòn đã có những thay đổi đáng kể, nó trở thành một thành phố đáng ngưỡng mộ từ các nước Đông Nam Á Châu.

[​IMG]
Vài hình ảnh Sài Gòn trước 1975 – Hòn Ngọc Viễn Đông

Về văn hóa: Phải nói ngay rằng, nền văn hóa nhân bản dân tộc đã được phát triển một cách toàn diện và rộng rãi tại miền nam Việt Nam. Ở đó tinh thần Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín Trung được đặt lên hàng  đầu trong giáo dục công dân. Tạo cho người dân có ý thức trưởng thành về lòng yêu nước, về truyền thống độc lập và thấu hiểu lịch sử của dân tộc một cách rõ ràng, chính xác. Bên cạnh đó là sự tôn trọng nền văn hóa lành thánh của các tôn giáo đã tạo cho xã hội miền nam một bộ mặt hài hòa về nhân nghĩa và đạo đức. Nạn trộm cắp không thường thấy, những tệ nạn xã hội không phải không có nhưng rất ít gặp. Riêng những tội đại nghịch bất đạo như giết cha mẹ, vợ chồng giết nhau thì hàng năm trời cũng không nghe đến một vài. Nói chi đến những trường hợp tình nhân, yêu nhau bỏ nhau là có thể ra bản án tử cho đối tác.

 

Phần đời sống chính trị: Sự tự do, nhân phẩm, nhân quyền của người công dân được luật pháp bảo vệ và tôn trọng. Một người công dân không thể bị coi là có tội cho đến khi bị  toà tuyên án. Không ai có thể bị bạo hành từ các cơ quan trách nhiệm.  Ở đó là một xã hội nhân bản, nếu không có tiếng súng đùng chát phá làng phá xóm của Cờ Đỏ trong đêm khuya thì quả là một cuộc sống đầy hoan lạc.

Tuy nhiên, sau ngày 30-04-1975  Cờ Đỏ được kéo lên cao như một dấu chỉ khác. Niềm vui chưa kịp đến vì im tiếng súng. Toàn cảnh miền nam đã rơi vào trong hỗn loạn, hoang mang và thực sự là đối diện với lo âu và nỗi chết. Trước tiên, hàng trăm ngàn người thuộc mọi giai tầng trí thức ở miền nam trong hàng ngũ quân, cán, chính đều bi đẩy vào các trại tù. Trong lúc hàng trăm ngàn người bị đẩy vào các trại tù khổ sai, biệt tin, tạo nên những bản tìn đồn làm náo động lòng người thì ngày 12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài xã luận với những lời lẽ phải được coi là loại cực kỳ vô văn hóa, nếu như không muốn nói là vô giáo dục, khi nó mô tả về những ngưòi lính miền nam bị lùa vào tù như sau: “Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”. Phần Nguyễn Hộ thì huỵch toẹt ra cái chủ trương man rợ của những kẻ còn ăn lông ở lỗ của CSkhi vào nam là“Đối với bọn Ngụy quân, Ngụy quyền, nhà của chúng: ta ở; vợ của chúng: ta xài; con của chúng: ta bắt làm nô lệ; còn bọn chúng nó: ta giam cho đến chết!” Quả là kinh hãi thay!

Kế đến là những cuộc đổi tiền. Cuộc đổi tiền mà cán cộng rêu rao là: “Miền nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của sứ sở. Nó đã kết thúc 30 năm sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sài Gòn.” Thật gớm giếc thay những cái mồm loa gian trá, điên đảo của những nhà cách mạng chưa biết mặc quần! “ Tiền của nưóc độc lập” ư? Độc lập mà phải sống dựa hơi vào đồng tiền ” Mỹ Ngụy” năm xưa để cầu sống qua ngày à? Hãy nhìn lại từng đoàn xe nối đuôi nhau như bất tận, chuyên chở của cài mà cán cộng vơ vét từ miền nam đưa ra bắc sau ngày 30-4-1975 thì có câu trả lời. Đến nay, thử hỏi hàng năm không có hàng tỷ, tỷ đô la của người Việt gởi về giúp thân nhân thì cán cộng sống ra sao rồi? Cái đồng tiền mang hình Hồ chí Phèo ($20,000 bằng $1 đollar)  có chút gía trị nào khi trao đổi trên trường quốc tế chăng? Thật là xấu hổ cho cái đồng tiền “độc lập” của Việt cộng. Sau lần bị cướp cạn này, ngưòi dân đổ tràn ra biển với lời nguyền: Thà chết trên biển khơi còn hơn là phải ở lại sống với cái Cờ Đỏ! Nhà văn Duyên Anh, đã viết: “cái cột đèn nếu biết đi nó cũng không dám ở lại với Hồ chí Minh!”. Nhưng bấy nhiêu mới chỉ là khởi đầu. Nay thì toàn thể xã hội đã biết đến “đạo đức của cộng sản” là gì khi phó chủ tịch quốc hội của nhà nước Việt cộng đã lên tiếng cách đây gần 10 năm ( 2006)  là: “người ta phải  nói dối nhau mà sống vì đó là  đạo đức của  cách mạng ( Việt cộng)” ( Trần quốc Thuận).

Về giáo dục và văn hóa: Quả thật là ngưòi ta không thể phân định được là nền giáo dục văn hóa của nhà nước CS định vị trên căn bản nào. Chỉ thấy từ tối tới sáng nhà nước ra rả bài loa “học tập theo gương vĩ đãi của Hồ chí Minh”, Nhưng họ lại cũng không chỉ dẫn ra những cái vĩ đại của HCM là những cái nào. Thí dụ như gương giết vợ từ con, hay là việc lệnh cho Trường Chinh viết lời kêu gọi đồng bào Việt Nam bỏ chữ Quốc Ngữ học chữ Tàu để được nhận làm chư hầu cho Trung cộng, hay học tập theo gương HCM hoan hô  PVĐ ký công hàm công nhận Trường Sa Hoàng Sa là máu thịt của Việt Nam thuộc chủ quyền của Trung cộng. Kết quả của cái nền giáo dục vô văn hóa, vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo ấy là:

Thứ nhất: Người em cô cậu của ba tôi vào miền nam thăm anh vào tháng 8-1975, khi thấy anh em chúng tôi để giày dép và quần áo phơi ngập trên sân thì cô tự động đi ra và gom nhặt từng cái một đem vào để trong nhà. Thấy lạ các em tôi hỏi. Cô bảo: ”Liệu đấy, không còn lấy một cái mà mặc, mà xỏ chân!”. Nghe thế, anh em tôi nhìn nhau cười. Nay thì trộm cướp ở miền nam đã sánh ngang bằng với miền bắc vào năm 1975 rồi! Ở đâu cũng thấy thành phần này. Từ phố xá cho đến các công sở cơ quan, từ trung ương cho đến địa phương, không một nơi nào mà không dầy đặc sâu dân mọt nước. Kế đến, những tội đại nghịch theo gưong HCM “căm thù bố mẹ,  đoạn tuyệt với bố mẹ” thì xã hội ngày nay đã đến mức khủng hoảng vì những loại tội đại ác, con cái giết cha mẹ, cháu giết ông bà. Vợ chồng giết nhau vì cơn ghen. Nhân tình giết nhau vì cái xe, cái điện thoại của đối tác. Hoặc giả, khi chấm dứt quan hệ cho một cuộc tình, đối tác cũng có thể mất mạng! Và kinh hoàng hơn nữa là nạn phá thai ở lớp tuổi thanh thiếu niên đã làm chóng mặt mọi gia đình. Quả thật, nhờ “đạo đức” HCM, nhờ cái Cờ Đỏ  mà trong suốt tiến trình lịch sử gần 5000 năm của đất nước, chưa có thời nào mà những loại tội đại ác lại hoành hành và đe doạ xã hội như thời CS.  Phục chưa nào?

Kế đến là phần đất đai của tổ quốc thì nào có phải chỉ Hoàng Sa, Trường  Sa ở biển đông mất vào tay Tàu Cộng. Ngay đến đất liền, Nam Quan, Bản Dốc, Lão Sơn, Tục Lãm…  nay đã mang tên xứ người. Lại còn Tân Rai, Nông Cơ và biết bao nhiêu là đất đai, cửa biển trong nội địa của Việt Nam đã nằm trong vòng tay kiểm soát của Tàu.

 

Về đời sống chính trị: Người dân miền nam Việt Nam ngày nay còn lại đôi tay trắng. Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý mất sạch sẽ, chỉ còn lại là những hàng chữ vô cảm để nhìn cho đẹp mắt. Đến chữ Độc Lập mới là một nỗi nhục khác. Người dân muốn bảo vệ chủ quyền của đất nước trên Hoàng Sa Trường Sa là vào nhà tù. Thử hỏi xem, liệu còn một nỗi tủi nhục nào lớn hơn khi phải cầm tấm hộ chiếu của CHXHCN Việt Nam do Việt cộng cấp phát, còn nỗi nhục nào lớn hơn cho người dân Việt phải đứng dười lá Cờ Đỏ của CS Phúc Kiến và bảo đó là của mình? Tôi cho rằng, không còn nỗi nhục nào to lớn như thế nữa. Từ đó, chả cần phải nhắc nhở, lá Cờ Vàng tuyệt đối chiếm trọn tim lòng người Việt Nam. Họ mong chờ từng giây, tùng phút cho ngày Cờ Vàng về trên quê hương Việt Nam. Dẫu cuộc chờ đợi ấy là trăm năm!

2.Với những người sống trên đất bắc:

Nếu người ở miền nam có được một chút kinh nghiệm về CS như hôm nay, thì cái kinh nghiệm của họ về cộng sản so với người miền bắc chỉ là con số không, hoặc là con đom đóm lập loè trước ngọn đèn sáng, không đáng để nói đến. Bởi vì, niềm đau của họ không phải chỉ là tiếc nuối vì chậm chân trong cuộc di cư 1954, nhưng là sự kiện, tất cả mọi người ở ngoài bắc đều đã bị dồn vào cõi chết và bị xô đẩy vào cuộc sống đầy gian trá.

Thật vậy, vào mùa đấu tố 1953-56, không một ngưòi nào trên đất bắc không sờ thấy cái chết ngay bên mình. Tất cả đều thoi thóp sống trong lo sợ và chờ cái chết gọi tên. Trong cảnh khốn cùng đó, đã có gần 200 ngàn người Việt Nam tại miền bắc bị HCM gọi tên. Sau những cái chết vì bạo hành và hàng trăm ngàn gia đình bị ly tán là toàn thể nhân dân miền bắc chỉ còn lại đôi mắt trắng. Tất cả mọi thứ tài sản, từ ruộng vườn đất đai đến cơ sở làm ăn đều thuộc về tay nhà nước quản lý. “Nỗi đau về vật chất ấy,  thật chẳng thấm gì”, cô tôi bảo thế. Bởi vì, người ta đã phải đánh đổi phần luân thường đạo lý xã hội, phần lễ nghĩa nhân phẩm của con người bằng những gian trá, vu khống giết người theo bài học “địa chủ ác ghê “ của HCM để tìm sống cho cá nhân mình. Người người, không phân biệt già trẻ, gái trai, đều phải học tập lấy phương cách nói dối nhau, lừa nhau mà sống. Ở đó, Công Lý của chế độ được thực thi bằng lệnh của cái búa, cái liềm trong tay những nhà cách mạng chưa biết mặc quần. Ở đó, Cờ Đỏ đã dạy cho người dân bài học căm thù giữa con người với con người. Ở đó, Cờ Đỏ dạy cho ngưòi dân bội tín bội nghĩa, bằng sự rình rập báo cáo lẫn nhau. Ở đó, CS đã dạy cho những đứa con “căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” vì bác đảng. Đến nỗi người cha phải trả lời đứa con  do mình đẻ ra: “Ông có biết tôi là ai không?” Người cha ngậm ngùi ngước nhìn đứa con dứt ruột do mình đẻ ra và nói: “Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ!” ( Chứng từ của một Giám Mục, trang 383). Hỡi ôi, xã hội Cờ Đỏ!

image

Kết quả của những bài học này dần dần là sự kiện tái quy. Người dân đâm ra căm thù cộng sản, thù ghét Tầu khựa. Nhiều ngưòi dù chưa một lần nhìn thấy là cờ Vàng và cuộc sống của người miền nam ra sao, chỉ nghe đồn về nó, nhưng đã hằng đêm khấn nguyện, ước mong một ngày được nhìn thấy đoàn quân cứu nước ở miền nam ra giải phóng cho đồng bào. Khi ấy, chắc hẳn là búa trả búa, liềm trả  liềm cho cán bộ đảng viên nhà nước? Lại cũng có ngưòi trong cơn đau cùng quẫn, đứng giữa đường, trước cổng quan cán mà gào trời, van đất xập xuống để cùng chết chung với cái Cờ Đỏ hơn là phải sống trong những ngày tăm tối với nó. Những ước mơ này đến nay vẫn chưa hề thay đổi, dẫu chính phủ ở miền nam không còn! Điều đó cho thấy, chính Cờ Đỏ dạy cho dân chúng mơ ước được nhìn thấy và sống với niềm tin của Cờ Vàng là cờ mang biểu tượng của Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền và Công Lý, là niềm tin, là sự sống của đất nước.

3.Với những người lớn lên sau mùa đấu tố hay sau ngày 30-4-197:

Một điều không may mắn cho những thế hệ này là đã không được hưởng lấy một giờ, một phút trong cuộc sống của Tự Do Nhân Bản. Một điều tang thương hơn thế là họ đã lớn lên trong cuộc sống mà chế độ đang ra sức tận diệt niềm tin của con người với con ngưòi, của con người với tôn giáo. Và trong tận cùng của sự tệ hại là những thế hệ này đã không được hưởng lấy đôi phần nền giáo dục nhân bản và văn hóa của dân tộc. Thay vào đó là họ phài dùi mài một thứ văn hóa nô lệ, bá đạo, phỉ báng công sức tiền nhân, của tôn giáo và ca tụng kẻ thù của dân tộc. Và có thể, họ đang bị nhồi nhét một thứ văn hóa man rợ là nhận giặc là cha (Hồ chí Minh không chắc là người Việt Nam, nhưng là một Cù thị trong kế hoạch Hán hóa của TC?) Với lối giáo dục này, Cs đã làm băng hoại lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam và tệ hơn, nhằm đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho Trung cộng.

Đó là sự thiệt thòi lớn lao cho họ. Tuy nhiên, trí năng của con người không phải như trí năng của loài khỉ đột, bị đóng khung trong những giáo điều gian trá. Trái lại, với những phương tiện truyền tải từ thông tin, dù là thông tin của cộng sản, đến những câu chuyện trong cuộc sống hằng ngày đã đưa lớp trẻ Việt Nam vào một suy tư, vào một cái nhìn khác với những điều mà cộng sản muốn. Nghĩa là, lớp ngưòi trẻ này đã nhận ra được sự thật. Họ đã bị lừa dối, dân tộc này đã bị cộng sản phản bội. Từ đó, họ tìm ra sự thật.

a.Về con ngưòi.

CS không ngừng truyền dạy lớp trẻ về  Hồ chí Minh là “ bác” không có vợ, suốt đời hy sinh vì dân vì nước”. Với họ, đây có thể coi là một chuyện cười thô bỉ nhất thế giới mà CS VN tiếp tục truyền vào học đường hay trong phong cách giáo dục cho học viên CS. Gọi nó là chuyện cười thô bỉ, bời vì Hồ chí Minh, không những chỉ có một, nhưng là có nhiều đời vợ, với đầy đủ giấy tờ cá nhân đã được phơi bày. Tại sao lại phải dối trá như thế? Câu hỏi ngắn, chuyên chở một ý gnhĩa dài. Riêng trường hợp của Nông thị Xuân, thì không có giấy tờ chứng nhận Xuân là vợ của Hồ chí Minh. Nhưng trong trường hợp này thì Hồ chí Minh ( Hồ Quang) lại phạm vào tội đại ác. Đã hiếp Nông thị Xuân ngay từ khi em 16 tuổi, đến khi em sinh con thì từ con và giết Nông thị Xuân. Đấy là một tội ác. Sự kiện tội ác, không phải là việc Y ăn ở với người khác phái, dù không cưới hỏi. Hoặc làm “ vua” thì có năm thê bảy thiếp nhỏ tuổi. Nhưng sự ác là việc giết ngưòi cách man rợ và quăng xác ra ngoài đường để tạo hiện trường gỉa là một tai nạn lưu thông để bảo vệ cho cái sự kiện gian trá là “bác không có vợ” của HCM. Quả là một chuyện man rợ cổ kim chưa từng có.

b.Về bài học phản luân lý,

“Phải căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ”. (Đèn Cù tr 74), được coi là kim chỉ nam trong đào tạo các đoàn đảng viên CS, lớp trẻ ngày nay cho rằng: Bài học này, người trước nhất phải áp dụng là Vũ Trung còn gọi là Nguyển tất Trung, con đẻ của Hồ chí Minh và Nông thị Xuân. Trung phải ngậm đắng một đời thù hận Hồ chí Minh vì cái chết của ngừoi mẹ là Nông thị Xuân, và không thể thanh minh cho mẹ dù là một câu? Và bản thân Hồ chí Minh thì trong suốt một đời cũng đã thực hiện bài kiểm thảo này một cách trọn vẹn. Y không hề đốt cho cha mẹ một nén nhang! Lời thề “căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” của HCM đúng vào cả hai trường hợp, dù cha mẹ Y là ngưòi ở làng Kim Liên hay là ở bên Tàu!  Thử hỏi, với cái thứ “đạo đức” phản luân lý này đuợc cộng sản đem vào học đường, tuổi trẻ và xã hội Việt Nam đi về đâu?  May là lớp trẻ ở đây đã được di truyền nền tảng đời sống luân lý từ gia đình, từ tôn giáo, theo đó, hầu  như chỉ có một số rất ít, khoảng 5%  dân số học theo thứ luân lý không có quần này mà thôi.

c.Về việc gọi là cứu nước:

Nay thì mọi chuyện giối trá của CS đã bị những thế hệ trẻ này phơi bày ra trước bàn dân thiên hạ. Theo họ, tập đoàn CS Minh, Đồng, Chinh, Duẩn, Giáp…  luôn cho mình là những kẻ  “đánh Mỹ” cứu nước, thật ra, đây chỉ là một tập đoàn đánh thuê, nhân danh Trung cộng giết ngưòi Việt Nam cho Trung cộng mở rộng bờ cõi về phương nam mà thôi. Bằng chứng là, bản thân Hồ chí Minh là thiếu tá Hồ Quang, (ngưòi Tàu?) đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, tùng sự tại bát lộ quân của Chu Đức trước khi xâm nhập vào đảng CSVN. Kế đến Trường Chinh thì kêu gọi người Việt Nam học tiếng Tàu, dùng thuốc tàu để được làm chư hầu cho Trung Cộng. Phần Lê Duẩn thì hãnh diện tuyên bố để lập công trước mặt Mao là: “Cuộc chiến này là ta đánh cho Trung Cộng và Liên Sô”.  Và “tất cả mọi viêc của chúng tôi làm là tùy thuộc vào Mao chủ tịch”. Phần PVĐ thì đã sớm ký giao Hoàng Sa, Trường Sa của Vỉệt Nam cho Trung Cộng từ 1958. Đến Tố Hữu thì nổi danh với bài thơ “bên đây biên giới là Tàu (nhà), bên kia biên giới cũng là Trung Hoa ( quê hương)!”  nên Biển Đông, Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm chỉ còn là bóng mờ nhớ thương trong lòng người Việt, phần thực tế là quê hương của Tàu cộng theo đúng chủ trương của HCM.!

Với những bài học từ Cờ Đỏ như thế, dù chưa nói ra, ai cũng biết Cờ Đỏ không có đất sống trong lòng những thế hệ trẻ hôm nay. Nó chết vì sự vay mượn từ bên Tàu. Nó chết vì đã gây ra quá nhiều tội ác. Và nó chết vì sự gian trá, và bội phản của nó. Theo đó, việc giải thế nó, xé bỏ nó chỉ còn là thời gian. Bởi vì, tuổi trẻ Việt Nam hôm nay đã lên đường để tìm đến khát vọng của dân tộc. Ngày nay, không một người Việt Nam nào không khao khát đời sống Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý và sự Độc Lập của tổ quốc. Sự khát vọng này đã xướng khởi, đã là những nguyên do bùng phát những cuộc tránh đấu tại Việt Nam. Những cuộc tranh đấu tuy còn giới hạn trong phạm vi nhỏ, hay nhiều khi mang tính cá nhân, nhưng nó đã có sẵn và đầy đủ những tố chất cần thiết cho một bước đi toàn diện và quyết liệt. Một bước đi quyết liệt sẽ làm thay đổi toàn cảnh Việt Nam trong tương lai. Thử hỏi, khi người Việt Nam cùng đứng lên xé bỏ Cờ Đỏ, màu cờ nào sẽ là Linh Hồn cho một ước nguyện của dân tộc?

 
 
Tôi cho rằng đó là Màu Cờ của Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý và Độc Lập Dân Tộc. Đó là Lá Cờ đánh đuổi ngoại xâm đã có từ thời Hai bà Trưng. Đất nước này, dân tộc này còn tồn tại là do màu cờ Chính Nghĩa này đã khởi xướng và lưu truyền lại cho con cháu qua nhiều triều đại. Đó là Lá Cờ truyền thống của dân tộc mà người Miền Nam đã kéo lên lễ đài “ dinh Toàn Quyền” để chấm dứt cuộc đô hộ của thực dân Pháp. Đó là Màu Cờ mà chính phủ miền nam đã kéo lên để mở đường cho hơn một triệu người miền bắc trốn chạy cộng sản, di cư vào nam, xây dựng đời sống vào năm 1954. Đó là Màu Cờ đã phủ lên mình Nguỵ văn Thà và đồng bạn của anh, những người chiến binh đã hy sinh vì tổ quốc trong cuộc chiến Hoàng Sa đánh đuổi quân xâm lăng Trung cộng. Đó là Màu Cờ Vàng mà ngày nay vẫn ngạo nghễ tung bay, khoe sắc trên bầu trời thế giới. Đó là Màu Cờ ở trong tim lòng người dân Việt Nam
 

Màu Cờ, Biểu Tượng và Niềm Tin – Phần 2

Bảo Giang –

[covang3.jpg]

Lịch sử của một dân tộc là sự kết hợp từ những cung nhạc trầm bổng, suy thịnh nối tiếp nhau. Sau ngày Việt Minh cướp được chính quyền tại miền Bắc và sau hiệp định Genève 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi, dòng sông Bến Hải tạm thời được coi là lằn ranh chia đôi đất nước. Bầu trời Việt Nam lần đầu tiên có hai màu cờ, có hai chính phủ với hai thể chế khác biệt và xung khắc nhau.

Cuộc chia đôi đất nước với hai chế độ xung khắc nhau đã tạo nên một cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc. Số lượng người trốn chạy chế độ cộng sản vào năm 1954 lên đến hàng triệu người. Hàng hàng, lớp lớp người bỏ lại phần quê hương ở phía sau mà đi. Gánh hành trang của họ mang trên vai không phải là nhà cửa ruộng vườn, nhưng là trọn vẹn nền văn hóa nhân bản và luân thường đạo lý của dân tộc. Rồi họ dựng lều, xây nhà ở phần đất miền nam với hoài bão bảo vệ trọn vẹn phần đất còn lại của tiền nhân. Bảo toàn và phát triển nền văn hóa nhân bản của dân tộc, chờ ngày về xây dựng lại miền đất, nơi họ phải bỏ ra đi ngày nào.

Tiếc rằng, việc mọi người chung sức xây dựng và kiến tạo một nhà Việt Nam phồn vinh tại miền Nam và đưa màu cờ Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Độc Lập của Việt Nam vươn lên vùng trời thế giới, lại rơi vào lòng căm thù của những đôi mắt đỏ của tập đoàn CS. Từ đó, Việt cộng dưới sự lãnh đạo của HCM, không ngừng xua quân tràn vào, tạo nên cảnh máu đổ thịt rơi. Hàng vạn nhà ra tro, hàng triệu người đã mất cuộc sống chỉ vì những cái đầu không tim óc của những kẻ tự mặc cho mình cái áo thụng cách mạng, nhưng không có quần như đứa bé kéo lê cái lá Cờ Đỏ trong cuộc đấu tố là truyền thống, là lịch sử là văn hóa của họ. Kết quả, một kết quả tang thương trong nốt nhạc trầm của đất nước. Cộng sản đã cướp được chính quyền ở miền nam Việt Nam bằng súng đạn của Nga Tàu vào ngày 30-4-1975. Và người Việt Nam lại vội vã băng biển khơi mà đi.

Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc, giải thích cho chính xác chữ “Cướp” mà tôi dùng trong trường hợp CS Cướp Chính Quyền của Việt Nam vào hai thời kỳ, sau chiến tranh Đông Dương vào ngày 02-9-1945 tại miền Bắc. Và sau chiến tranh gọi là “chống Mỹ cứu nước” vào ngày 30-4-1975. Tôi gọi là Cướp bởi vì: Theo tinh thẩn của bản Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945 quyết định: Trong 4 năm từ 1945 đến 1949. Các đế quốc Tây Phương bao gồm Hoa Kỳ, Anh Pháp, Hòa Lan sẽ lần lượt tự giải thể và trao trả Độc Lập cho 12 thuộc địa tại khu vực Á Châu, trong đó có việc trao trả Độc Lập cho các nước Đông Dương do Pháp thực hiện vào năm 1949. Theo tinh thần này, Việt Nam hoàn toàn thu hồi lại chủ quyền Quốc Gia theo Hiệp Định Elysée do chính tay Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ký ngày 8 tháng 3, 1949. Cũng theo tinh thần của Hiệp Định Elysée, tất cả các hiệp ước về thuộc địa và bảo hộ được ký kết với pháp trước kia, từ hậu bán thể kỷ 19 đã bị Hiệp Định Elysée hủy bỏ hoàn toàn.

Theo đó cuộc chiến gọi là giành Độc Lập từ 1946 đến năm 1954 thực ra chỉ là cuộc chiến do CS chủ trương để cướp chính quyền tại miền bắc do Trung cộng trực tiếp chỉ đạo. Nó, xét cho cùng, chỉ có một tác dụng, một giá trị duy nhất sau cái chết của hàng triệu người là nước Việt Nam bị chia ra làm hai và CS chiếm được độc quyền lãnh đạo ở miền Bắc và mở rộng biên cương về phía Nam cho CS mà thôi. Ngoài ra, nó không có một chút ý nghĩa nào khác để được gọi là chiến tranh giành Độc Lập cho Việt Nam. Bởi lẽ, vào năm 1949 Việt Nam đã hoàn toàn thu hồi chủ quyền vào ngày 8-3-1949.

Kế đến là việc tập đoàn CS gây ra chiến tranh tang tóc tại miền nam. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa. Cộng sản dựng chiêu bài “đánh Mỹ cứu nước” để “thống nhất” tổ quốc chỉ là cái bánh vẽ để lừa bịp và đẩy đồng bào miền Bắc, những người vừa khốn khổ thoát chết sau cuộc đấu tố kinh hoàng, nay không nơi nương tựa, đành phải bước vào cuộc chiến mù lòa do CS tạo ra. Gọi đây là cuộc chiến phi tranh phi nghĩa, lừa bịp những người đang trong cuộc khủng hoảng sau cuộc đấu tố và đẩy họ vào chiến tranh để CS cướp chính quyền ở miền Nam là vì: Trong thực tế, Việt Nam đã hoàn toàn được thống nhất vào ngày 23-4-1949, là ngày Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhật Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam theo tinh thần hiệp định Elysée với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống. Như thế, Việt cộng không có công cán gì trong việc giành Độc Lập và Thống nhất đất nước vào năm 1945 và 1975. Có chăng chúng tạo ra chiến tranh để Việt Nam bị chia ra làm hai, rồi lại tiếp tục điên cuồng theo đuổi chiến tranh để cướp nốt phần còn lại.

Nên khi viết về việc Thống Nhất và Độc Lập của Việt Nam, Ls Lê Hữu Thống đã thẳng thắn nhận định rằng: “Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Elysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975. “vì Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập… Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia.” ( Ls Nguyễn Hữu Thống, Duyệt lại sự thật lịch sử),)

Tuy nhiên, sau bốn mươi năm cướp được chính quyền trên toàn cõi Việt Nam, CS với nhiều sách lược bá đạo, ngu dân, ngu cán, vẫn không thể giải thể được hình bóng lá Cờ Vàng là biểu tượng cho tinh thần Tự Do, Độc Lập, Nhân Bản ở trong lòng người Việt Nam. Kết quả, Cờ Vàng tuy tạm mất dấu trên đất Việt, nhưng đã cùng với bước chân của những người tỵ nạn, ngạo nghễ tung bay trên bầu trời thế giới. Cờ Vàng từ Đại Dương vươn lên, không chỉ là niềm tin, là sức mạnh của người Việt Nam vượt qua cái chết và ngục tù của cộng sản để đi lên. Nhưng còn là một động lực, một tiếng nói mãnh liệt giúp cho thế giới chuyển minh, đặc biệt là các quốc gia đang bị CS chiếm đóng quật khởi, phá vở bức tường Bá Linh, làm sụp đổ chế độ cộng sản tại Liên sô, giải phóng 1/3 thế giới khỏi ách cộng sản (1989).

Tại sao Cờ Vàng có chỗ đứng như hôm nay và trở thanh biểu tượng Tự Do Dân Chủ, Nhân Quyền Công Lý, soi đường Độc Lập cho mọi người cùng tìm về? Rất đơn giản. Cờ Vàng là Niềm Tin và Sức Sống. Nó đã vượt qua cõi chết để hằng sống. Điển hình, sau hai, ba ngày xuống thuyền vượt biên, nếu lại nom thấy Cờ Đỏ là tàn đời. Sẽ là tù ngục hay máu đỏ loang biển xanh! Nó còn kinh hoàng, vãi đái hơn cả khi gặp Cờ Đen của hải tặc. Nếu nhìn thấy Cờ Vàng thì kẻ đang hấp hối trên thuyền vì đói khát, cũng bừng tỉnh. Nguồn sống đã bừng lên. Mọi sợ hãi đều tan biến đi. Hạnh phúc niềm vui trong vòng tay! Nhưng ai đã chiến đấu cho Cờ Đỏ? Ai vì Cờ Vàng?

 A. Ai và những ai chiến đấu cho Cờ Đỏ, giết chết Độc Lập, Tự Do của dân Việt?
1. Li Jishen

Người đầu tiên được kể đến như là người sống chết với Cờ Đỏ là Li Jishen (Lý Kỳ Thân). Li Jishen là người sáng lập và lãnh đạo phong trào CS tại Phúc Kiến, lấy Cờ Đỏ sao vàng là biểu tượng cho cuộc tranh đấu của đảng CS Phúc Kiến vào khoảng 11.1933 đến 1.1934. Sau cuộc nổi dậy ở Phúc Châu, Phúc Kiến, bị phe Tưởng giới Thạch dẹp tan, Li JiShen đem tàn quân sát nhập vào với Mao Trạch Đông. Sau này Lý làm phó chủ tịch nhà nước Trung cộng vào năm 1949. Lá cờ này không còn được sử dụng kể từ khi Lý sát nhập quân đội tan rã của mình vào với phe Mao trạch Đông

https://i0.wp.com/mediacdn.disqus.com/uploads/mediaembed/images/320/7263/original.jpg

Cờ của đảng ủy CS Phúc Kiến

Nhưng xem ra màu cờ này mãi còn ở trong lòng những đảng viên CS Phúc Kiến và Lý kỳ Thân. Bởi vì, nó đã giúp Trung cộng toại nguyện vượt biên giới để xuôi nam, khi Li-Mao thấy lá cờ này phe phẩy trên đất nước Việt Nam chẳng khác gì nơi quê nhà Phúc Kiến. Hơn thế, nơi đó sẽ còn là nơi để càng lúc càng có nhiều người Tàu đổ bộ sang bên kia biên giới… mới để xây dựng cơ nghiệp. Những di dân, lúc đầu là bất hợp pháp này sẽ khoanh vùng và thành những căn cứ an toàn cho một bước “nhảy vọt” trong mưu đồ thôn tính nam bang mà không phải đổ quá nhiều máu xương như cho ông họ đã làm và đã thất bại. Hơn thế, từ bên kia, dân An nam đã được CS dạy cho nằm lòng bài ca như câu ca dao từ cửa miệng mọi người là: “Bên đây biên giới là Tàu (nhà) , bên kia biên giới cũng là Trung Hoa (quê hương)” (Tố Hữu) lẽ nào ta không thắng?

2. Hồ chí Minh, (—1969) tên là Hồ Quang, đảng viên đảng cộng sản Trung Cộng, Thiếu tá trong quân đội giải phóng nhân dân Trung cộng, chủ tịch đảng cộng sản Đông Dương, chủ tịch đảng cộng sản VN, chủ tịch nhà nước VNDCCH.

Trước tiên, tôi không để năm sinh của HCM vì CS chưa DNA để chứng thực cái xác trong lồng kiếng kia là của HCM sinh 1901? Nó có quá nhiều hoài nghi nên tôi không đề năm sinh. Tuy nhiên, theo hồ sơ còn lưu trữ trong Quân Ủy Trung Ương Trung Cộng, Hồ Chí Minh là Hồ Quang, thiếu tá quân đội nhân dân, đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, phục vụ ngành điện báo thuộc bát lộ quân của Chu Đức. Y được lệnh xâm nhập vào lãnh thổ và thành lập đảng cộng sản Việt Nam sau khi được tin Nguyễn Tất Thành (Ái Quốc) đã chết về bệnh lao trên đường đến Liên Xô? Y đã mang lá cờ của CS Phúc Kiến vào Việt Nam trong khoảng 1940. Theo Võ Nguyên Giáp, “Phiên bản lá cờ này do HCM mang về từ nước ngoài và được chính thức treo lên cửa hang Pắc Bó vào ngày 19-5-1941”. Sau đó, Hồ Quang trở về Trung cộng. Trên đường về, Y bị quân của Tưởng giới Thạch bắt. Vì sợ bị lộ tông tích là Hồ Quang, Y đã khai là người Việt, tên Hồ Chí Minh.

Với lý lịch này, tôi cho rằng HCM suốt quãng đời, từ 1940-1969 đã hết lòng hết sức để phục vụ cho Cờ Đỏ. Bề ngoài, với danh nghĩa cho Việt Nam, nhưng thực chất, y không phục vụ cho quyền lợi của dân tộc và tổ quốc Việt Nam, nhưng vì quyền lợi của Trung cộng. Nói cách khác, Y xâm nhập hàng ngũ CSĐD với mưu đồ cướp chính quyền tại Việt Nam và Miên, Lào để mở đường cho Trung cộng tràn xuống phương nam. Đó là lý do tại sao. Trung cộng hỗ trợ toàn diện cho HCM trong cuộc chiến chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam từ 1946-1954, để rồi đất nước Việt Nam bị chia đôi vào ngày 20-7-1954 với khoảng một triệu người Việt hy sinh. Sau đó mở cuộc chiến vào Nam và kết thúc vào ngày 30-4-1975 với khoảng hơn hai triệu người mất cuộc sống. HCM đã thỏa nguyện ước chiến đấu cho màu Cờ Đỏ của Phúc Kiến để cướp lấy, không những chính quyền mà còn cả giang sơn Việt Nam cho Trung cộng.

3. Đặng Xuân Khu (1907-1988) TBT đảng CSĐD tiền thân đảng CSVN

Có thể Đặng Xuân Khu biết rất rõ xuất xứ của lá cờ cũng như lý lịch bản thân và chủ trương của Hồ chí Minh, vì Khu đã có nhiều thời gian hoạt động đi lại trên đất Trung Hoa. Ngay cái bút danh của Khu là Trường Chinh đã nói lên tấm lòng thờ Tầu cua Khu. Hơn thế, khi trốn bản án tử hình của hội đồng đề hình Pháp vào năm 1943, y cần một chỗ nương tựa chắc chắn. Theo đó việc y thờ Tàu là dễ hiểu. Dĩ nhiên y có thể theo gương những kẻ bán nước đi thờ Tàu, nhưng khi phò Tàu, Y đã nhân danh TBT đảng CSĐD, viết lời kêu gọi đồng bào Việt Nam bỏ chữ quốc ngữ để học chữ Tàu, và uống thuốc Tàu để xin được làm chư hầu cho Trung cộng như y, là một việc làm thô bỉ, đáng khinh. Đây là bản văn đầy ô nhục cho đảng CSVN. Tuy nhiên, Khu lại được đảng CS đánh giá là lý thuyết gia hàng đầu của đảng, là niềm kiêu hãnh vô biên của cộng sản VN! Khu viết:

Việt Minh Vận Động cho Việt Nam làm Chư Hầu Trung Quốc

ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

…đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc…

Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế.

Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v… TBT Trường Chinh. (1951)

4. Lê Duẩn

Khi Đặng Xuân Khu còn chạy đà theo chủ trương của Tàu, Lê Duẩn không có tư cách gì để chen chân vào cuộc tranh đua với Minh-Chinh. Tuy nhiên, sự tàn bạo, vô nhân của mùa đấu tố đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng trong cuộc sống của dân chúng VN, nên dù không muốn, TC đành phải tạm hy sinh Khu và giữ lại Hồ Quang trong vai chủ tịch nhà nước, chủ tịch đảng CSVN. Đó chính là cơ hội tốt nhất để Lê Duẩn uốn mình, quỳ gối xuống thờ Tàu. Xem ra việc làm của Duẩn còn tệ hơn cả Lê Chiêu Thống. Trong cuộc họp với Mao Trạch Đông hồi năm 1970. Duẩn xác định, trước mặt Mao: “Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch… Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch”. Trong lần khác, Y lại tuyên bố: “Ta đánh Mỹ la đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô”. Tiếc rằng những lời tuyên bố “hào hùng” của y đã không được đài phát thanh của Việt cộng truyền đi cho dân chúng cùng nghe. Và cho mãi đến hôm nay cũng không dám nhắc lại, dù chỉ một lần.

Kết quả, hơn hai triệu người Việt Nam từ Bắc đến Nam mất mạng sống vì cuộc chiến điên cuồng do tập đoàn Minh – Duẩn – Giáp – Thọ – Thanh – Dũng… thực hiện theo chủ trương mở rộng biên cương xuống phương Nam của Tàu cộng dưới chiêu bài “đánh Mỹ cứu nước”. Vào ngày 30-4-1975 với súng đạn dồi dào của Tàu, Liên Xô, CS đã cướp được, không phải chỉ có chính quyền của miền Nam, nhưng còn cướp được trọn vẹn tài sản phong phú, tiền rừng bạc bể của Việt Nam. Từ đây, cộng sản độc chiếm quyền chính trị bá đạo để tạo ra độc quyền chiếm đoạt mọi tài sản của đất nước vào túi riêng. Sau bốn mươi năm cướp được công quyền, dân tình một ngày một xơ xác điêu linh, xã hội ngày thêm băng hoại về luân lý, đạo đức. Cán cộng ngồi xổm trên công lý, triển nở thứ đạo đức bá đạo, tàn độc, trộm cướp, gian trá của HCM để tự tạo cho mình cảnh giàu sang lớn. Phần đất nước của tiền nhân thì tan hoang, hình thể không còn là một hình thể thuộc Việt Nam. Trái lại, thành những miếng vá da beo, da cọp thuộc Tàu nằm trong lòng đất Việt Nam.

5. Phạm Văn Đồng

Mở đầu cho chương trình da beo thuộc Tàu là Phạm Văn Đồng. Một trong số những “lãnh đạo” đã không thể có điểm nổi bật lên một vai trò như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn hay Đặng Xuân Khu, nhưng y đã nhanh chóng đáp lời TC để làm một công việc thiên thu lưu xú là: Ký công hàm bán nước thế cho HCM. Chuyện ký Công Hàm bán nước này đã được Phạm Văn Đồng thực hiện sau khi Chu Ân Lai, thủ tướng Trung cộng công bố chủ quyền 12 hải lý trên quần đảo Trương Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, là của Trung cộng. Đổi lại, y được giao cho cái chức thủ tướng (thái thú) suốt đời (cho đến khi bị mù). Đồng viết:

CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC

Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa trên mặt biển….

Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958 PHẠM VĂN ĐỒNG”

6. Những kẻ chạy cờ: Giáp, Thanh, Dũng…

Chiến thắng Điện Biên, đẩy Giáp lên thành một tên tuổi lớn, đi đâu cũng vang dội tên tuổi đại tướng cầm quân… không giống như sau này là… “đại tướng cầm quần chị em”! Nay thì mọi việc lại phơi bày cách khác. Giáp luôn luôn ở cách xa trận địa mà không một hỏa lực pháo nào có thể bắn tới. Kế đến, Giáp chỉ là kẻ nhận lệnh trực tiếp từ những tướng Tàu nướng quân Việt như Trần Canh, La Qúy Ba mà thôi. Cuộc sống chết của người chiến binh VN không làm bận tâm viên tướng Tàu, Trần Canh, miễn là chúng đạt mục đích xuôi nam. Có thể Võ Nguyên Giáp cũng là một trong số những người biết rõ nguồn gốc của lá cờ tàu, cũng như biết rõ về lý lịch của Hồ Chí Minh, vì Giáp đã gặp Hồ Quang trước khi y xâm nhập vào Việt Nam. Giáp được đưa vào vị thế lớn là nhờ Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Giáp cũng chỉ là một mắt xích đang làm nhiệm vụ cho TC như lời HCM công bố sau chiến dịch biên giới vào 1951 như sau: “Tôi cần nêu lên công lao đặc biệt của Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quý Ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn trong chiến dịch. Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông… “Cảm ơn các đồng chí”, phần các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc...” (Nhật ký La Qúy Ba). Nào thấy công lao của Giáp đâu?

Với những thành tích như trên, tôi cho rằng, tập thể từ Minh (Hồ Quang), Khu, Duẩn Đồng, Giáp, Thọ… là những người đã cúc cung, tận tụy phục vụ cho lá cờ Phúc Kiến, dù mỗi người có một nét chui luồn và được giao nhiệm vụ khác nhau. Nhưng tất cả đã góp lại, tạo ra một dấu mốc rất “oanh liệt”. Tạo nên một danh phận, một nền văn hóa cho Cờ Đỏ mà tác giả theo “mây mù thế kỷ” (Bùi Tín) đã góp công tuyên truyền và hãnh diện nhắc đến là: “Tôi thấy lá Cờ Đỏ sao vàng đã có một thời oanh liệt, nó có một lịch sử hào hùng” (MMTK190). Qủa đúng như thế và sau đây là những điểm oanh liệt và một lịch sử hào hùng mà Bùi Tín góp công và ca tụng:

Thứ nhất: Nó oanh liệt vì đã tạo ra “thắng lợi long trời lở đất” với cái chết của gần 200 ngàn người thuộc thành phần dân tộc Việt Nam do tập đoàn này tạo ra trong mùa đấu tố và hàng trăm ngàn người khác mất nhà mất nghiệp hay phải bỏ mình vì cuộc chiến 1946-54 giúp tập đoàn này cướp và độc chiếm chính quyền ở miền Bắc theo Hiệp Định đình chiến tại Genève và chia nước Việt Nam ra làm hai.

Kế đến là những điểm “oanh liệt” khác giúp tạo nên danh phận, truyền thống, lịch sử khủng bố hào hùng của Cờ Đỏ để nó trở thành biểu tượng của sự chết, sự sợ hãi, sự kinh hoàng, của sự trộm cướp nhớn và bán nước, hại dân. Sở dĩ nó có lịch sử hào hùng này là vì bất cứ nơi đâu có Cờ Đỏ xuất hiện là nơi đó có máu của người dân Việt đứng ra bảo vệ Công Lý, bảo vệ nền luân lý, bảo vệ truyền thống đạo đức và nhân bản của xã hội, cũng như sự Độc Lập của Việt Nam tuôn chảy. Bất cứ nơi đâu có Cờ Đỏ xuất hiện là các đình chùa, miếu, đền… là biểu tượng của một nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam bị Cờ Tầu đập phá cho bình địa. Và bất cứ nơi đâu có bóng dáng của lá cờ Phúc Kiến phe phẩy là nơi đó có đầy đủ những chứng liệu bán nước, là có đầy đủ những chứng liệu cướp đoạt tài sản của nhân dân hay chiếm cứ của công. Đó chính là những nét oanh liệt mà tác giả đi theo “mây mù” đã hãnh diện đề cao thành tích và phục vụ nó. Nó oanh liệt như thế nên ngoài cái Cờ Đỏ ấy ra, không một lá cờ nào khác có thể tạo ra được những biểu tượng “hào hùng” và “oanh liệt” như thế! Bằng chứng ư?

Hãy nhìn đến lớp sóng sau của tập đoàn CS là thấy được toàn bộ những điều tôi vừa viết. Nó hiển hiện ngay trước mắt mọi người, không cần chứng minh. Thử hỏi xem, chừng nào những Mười, Linh, Phiêu, Kiệt, Khải, Anh, Mạnh, Cầm… và những yêu tinh như Trọng, Sang, Dũng, Hùng, Phúc, Thanh, Hải, Lưu, Luận, Phúc, Rứa… sẽ trả lời một cách công khai cho người dân Việt Nam biết mật ước của Thành Đô gồm những điểm nào. Có phải những kẻ này đã vì quyền lợi của tập đoàn “oanh liệt”, nên đã theo gương Đặng Xuân Khu, van xin TC chấp nhận và ban cho CS Việt Nam một quy chế tự trị vào năm 2020 như lời đồn đãi hay không? Nếu không, tại sao không một kẻ nào dám công khai chuyện mật ước Thành Đô là cái gì? Rồi hãy hỏi những thành phân này xem Nam Quan Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Làm giở thuộc về ai? Có phải bên đây là Tàu, bên kia cũng là Trung Hoa không? Rồi Đắc Nông, Tân Cơ, rừng đầu nguồn, Cửa Việt… bây giờ do ai kiểm soát? Trên toàn quốc Việt Nam hiện nay có bao nhiêu làng Tàu, với luật lệ Tàu, trường học Tàu, mà quan cán Việt Nam không còn được phép lai vãng đến? Rồi có bao nhiêu khu phố như Bình Dương? Bao nhiêu công trình lớn nhỏ nằm trong tay nhà thầu Trung cộng? Tại sao tất cả các tướng công an cũng như quân đội và các cấp mang quân hàm từ đại tá trở lên đều phải sang học tập ở bên Tàu trước khi được thăng cấp? Họ được gởi đi để trau dồi kiến thức chuyên môn hay học tập cho tốt đường lối của đảng hết lòng phục vụ cho chủ trương bành trướng, Hán hóa Việt Nam của Trung cộng?

Hỏi nhiều rồi, ai trả lời đây? Theo đó, câu trả lời hay nhất cho dân chúng Việt Nam là hãy nhìn cái cúi gập người của Trương tấn Sang trước lá cờ Tàu, nhìn thái độ, lời nói của Trọng, Thanh, Dũng… và những kẻ mang lý lịch Tàu như Uông Chung Lưu, Hoàng Trung Hải… đã được cài, cắm vào những chức vụ then chốt của nhà nước và đảng cộng sản VN thì sẽ biết tập đoàn này phục vụ cho ai? Thử hỏi, một tập thể nhờ cái Cờ Đỏ của Phúc Kiến để vơ vét, cướp giật tất cả mọi tài sản của nhân dân Việt Nam, từ tinh thần cho đến vật chất cho đầy túi tham như thế, mà lại có thể gọi nó là oanh liệt và có một lịch sử hào hùng ư?

Với tôi, tôi vẫn nhớ đến hình ảnh truyền thống oanh liệt, và lịch sử hào hùng của đứa bé cởi truồng, hai tay trịnh trọng cầm lá Cờ Đỏ đi quanh dấu trường đấu tố năm nào. Tấm ảnh có sức thuyết phục lớn. Vì sau cuộc đấu tố này, toàn bộ “Trí Phú Địa Hào” đã bị CS tiêu diệt, chỉ còn lại những nhà cách mạng nhớn nhỏ, đều cởi truồng nổi lên làm lịch sử mà thôi. Vời kiểu làm lịch sử ấy, dưới lá cờ ấy, dân tình không khốn đốn như hôm nay mới lạ. Tuy nhiên, nhìn tấm hình, bạn tôi bảo là, “thằng bé được cho ăn bánh, nó cầm cờ nhưng khi tung ra một nắm bánh kẹo khác, sẽ thấy nó quăng cả cờ đi, chạy ra mà tranh giành, vồ lấy bánh kẹo”. Nay lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm rồi. Xem ra chẳng có mấy kẻ trong số những là cách mạng Việt cộng sẽ sống và chết với cái Cờ Đỏ oanh liệt kia? Trái lại đã có, và có rất nhiều những nhà cách mạng VC mồm thì bô bô sống chết với Cờ Đỏ oanh liệt và lịch sử hào hùng, nhưng chân thì đã nhanh hơn mồm, bồng con bế cháu, tìm cách cho chúng sang các nước bạn của Cờ Vàng mà mua nhà, mua đất, mua cơ sở để chờ… thời trốn!

Tóm lại, sau khi cướp được Công quyền, tạo ra được thế cướp vững mạnh để chiếm hữu toàn bộ tài sản của tư nhân cũng như của công, mà không ai có thể cưởng chống lại được. CS đã nhân danh đảng, nhân danh chủ nghĩa CS, lợi dụng cái Cờ Đỏ để, trước là triệt hạ nhau, sau là triệt hạ nhân dân để độc chiếm lấy cái quyền cướp đoạt cho mình và cho phe nhóm của mình. Nghĩa là, ở trong lòng tập thể đứng dưới lá Cờ Đỏ này, vốn dĩ là không có gia đình, không có Tổ Quốc, không có tôn giáo, không có luân lý, không có dân tộc, nên nó cũng đồng nghĩa với không có sự sống, không có niềm tin. Biểu tượng của nó là sự chết, là tội ác và dối trá. Cuộc sống của nó là tạm bợ, tầm gửi, là cuộc sống lẩn tránh của bọn thổ phỉ sau khi phạm pháp. Tuy nhiên, không có gian dối nào có thể lẩn trốn Công Lý. Cộng sản và tội ác của nó cũng không có ngoại lệ.

(Còn tiếp)

2-2015
Bảo Giang

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s