Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: “Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận…. ”
Sách này còn viết rằng: “Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện.”
Sử xưa cũng ghi lại rằng: ” Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…”
Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng.
Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt.
Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes – Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc… cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc… cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang.
Sách không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo trình sư phạm.
Ngài là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học.
Nhìn chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi.
Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ được hoàn chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:
Ðến năm 1972, biên bản cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La Mã (6) . Còn hai cuốn tự-điển kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao, đã mất tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân), từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ chúng ta còn biết đến hai cuốn tự-điển này là vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm 1651, đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo cuốn tự-điển của mình.

Lễ Gọi hồn Mã Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây
(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
Ông Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên ông được:
– Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.
– Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/archives/pages/recherche.aspx?keyword=Truong%20Vinh%20Ky,
– Đứng vào vị trí ” Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử” tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.
– Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam… (4)
Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật…
Nhưng ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của ông đã bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch “Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy, Phản Động”, trường trung học Trương Vĩnh Ký bị đổi tên là Lê Hồng Phong, và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà – Sài Gòn bị cộng sản phá hủy.
http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=VA030117
Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra triển lãm “mỹ thuật” trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.
Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lý do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:
“… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
Không phải trong chế độ cộng sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người này lại chẳng có quyền hạn gì, trong khi đó thì hầu hết bọn lãnh đạo lại ngu dốt, độc tài, ngoan cố, bạo lực nên chúng muốn nói ngang nói ngược, người dân ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại gì mà lên tiếng, phê phán hay cải sửa để bị chụp mũ là phản động và bị bỏ tù cải tạo, mang hoạ vào thân.
Chính vì thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm xuất hiện khắp nơi. ” Đường Kách mệnh “ , ” Giải Fóng” Đó là Chữ Vẹm, tiêu biểu “đỉnh cao trí tuệ” XHCN.
Mãi tới khi người Việt tỵ nạn ở Hải Ngoại đã phải bàn cãi khi xuất bản sách, báo, đọc tin và nhất là khi tiếp xúc, nói chuyện với nhiều người Việt trong nước sau này đi đoàn tụ gia đình theo diện (ODP), các quân nhân và công chức của chế độ VNCH đi định cư ở Hoa Kỳ theo chương trình (HO), những bà con này đã vô tình quen dùng lối nói, viết một số tiếng Vẹm trong những năm tháng sống tại quê nhà, vì thế vấn đề xuất hiện tiếng Vẹm, chữ Vẹm ở hải ngoại đã được nêu lên và bàn luận rất nhiều.
Việt cộng đã tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm, có thể vì những lý do sau :
Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên mà Việt cộng làm, là bắt dân chúng phải tiêu huỷ tất cả các văn hoá phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc ” đồi trụy” “phản động”. Do đó, một số chữ của người Việt Quốc Gia miền Nam dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ, không dùng đến.
Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì vẹm nói là : “người phát ngôn”
Chúng ta nói là “xe hơi” thì vẹm nói là “ÔTÔ CON”
Nhưng vì dốt nát, vẹm vẫn cố tình dùng chữ “điểm yếu” thay thế cho chữ “yếu điểm”.
Việt minh dùng vũ lực,súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim thì vẹm gọi là Cách Mạng Tháng 8 – 1945.
Gài mìn, pháo kích vào trường học, nhà dân, bắt cóc, thủ tiêu, khủng bố, vẹm gọi là “hoạt động cách mạng”
Để cướp chính quyền bằng vũ lực súng đạn, vẹm gọi là “giải phóng nhân dân”
Để cướp đất đai của các điền chủ, vẹm gọi là Cải cách ruộng đất.
Người dân Vượt biên nếu thoát thì vẹm âu yếm gọi là Kiều bào, “Khúc ruột ngàn dặm”
Để biến dạng thành Tư bản Đỏ bóc lột nhân dân thì vẹm gọi là “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”
Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do thì vẹm gọi là tài liệu phản động,công cụ khủng bố.
Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự do, dân chủ, vẹm gọi là phản động, có âm mưu lật đổ chính quyền.
Để điều tra và có thể tống giam, vẹm gọi là Giấy mời.
Và còn nhiều không thể kể ra hết những chuyện sau 1975 cho đến hôm nay…
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
(Thường Xẩy ra tai nạn)
(Xử Lý…)
(LÃNG PHÍ)
(BÁN HÀNG RONG…)
(Thích Quảng Đức)
(Sông Sâu Chớ Lội)
(Tấm Gương…)
Thay vì in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, thì VC in sai là DOANH NHÂN.
– Ca Dao: Câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian
– Tục Ngữ: Câu nói có tính cách răn dạy hay châm biếm chuyện đời
– Châm Ngôn: Lời văn có vần điệu để khuyên đời
– Cách Ngôn: Lời nói làm khuôn phép (cách kiểu mẫu, khuôn mẫu)
– Ngạn Ngữ: Câu nói ngắn gọn của dân gian với mục đích răn dạy
– Phong Dao: Lời ca câu hát dân gian, diễn tả phong tục tập quán các địa phương.
– Phương Ngôn: Lời nói thông dụng của từng địa phương có ý nghĩa như câu tục ngữ
– Thành Ngữ: Những câu nói ngắn gọn, dùng khi nói hay viết đã được trau chuốt.
– Dân Ca: Những bài ca phát âm tiếng địa phương dân tộc, dễ hiểu và tâm tình dân tộc
(2) Văn “Tế cá sấu”Ngặc ngư kia hỡi mày có hay
Biển Đông rộng rãi là nơi này
Phú Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây
Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa
Thánh thần nối dõi bản triều nay
Dấy từ Hải Ấp ngôi trời thay
Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày
Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy.(3) Adran: Là Tước Hiệu của Phu tá Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc)
(4) Petrus – Trương Vĩnh Ký :
Ông đã được nhận các chức vụ và huân huy chương:
Huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863.
Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.
Huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886.
Thành viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876.
Hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878.
Huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883.
Huy chương Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886.
Huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
Huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887
Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.
Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.